Đàn nguyệt (chữ Hán:月琴: nguyệt cầm;Bính âm:Yùeqín) - là nhạc cụ dây gẩy căn nguyên từ Trung Quốc được du nhập vào Việt Nam, trong Nam còn gọi là đờn kìm. Loại đàn này sở hữu hộp đàn hình tròn như mặt trăng do vậy mang tên là "đàn nguyệt". Theo sách xưa, đàn nguyên thủy có 4 dây, sau rút lại còn 2 dây. Nó là một nhạc cụ quan trọng trong dàn nhạc kinh kịch Bắc Kinh, thường có vai trò là nhạc cụ chính thay cho phần dây cung.
Đàn nguyệt là cây đàn dùng nhiều để độc tấu, hòa tấu phổ biến ngón chơi độc đáo như ngón nhấn, ngón vê, ngón luyến… Màu âm đàn nguyệt tươi sáng, rộn ràng, tình cảm, đa dạng trong diễn tả những trạng thái cảm xúc âm nhạc.
Lịch sử ra đời
Theo truyền thống, nhạc cụ được phát minh ở Trung Quốc trong triều đại Tần thế kỷ thứ 3 tới thế kỷ 5. Tổ tiên của đàn nguyệt là đàn nguyễn.
Đàn nguyễn với lịch sử hơn 2.000 năm, hình thức sớm nhất có thể là tần tỳ bà, sau đấy là ruanxian (được đặt tên theo Nguyễn Hàm), rút ngắn thành ruan.
Cũng trong thời nhà Đường, một ruãnian đã được đưa tới Nhật Bản từ Trung Quốc. Bây giờ ruanxian này vẫn được lưu trữ trong Shosoin của Bảo tàng Quốc gia Nara ở Nhật Bản. Các ruanxian được làm bằng gỗ đàn hương đỏ và trang hoàng có khảm xà cừ. Các ruanxian cổ đại cho thấy rằng diện mạo của ruan hiện nay đã không đổi thay rộng rãi kể từ thế kỷ 8.
Ngày nay, mặc dù đàn nguyễn chưa bao giờ nhiều như pipa, ruan đã được chia thành nhiều nhạc cụ nhỏ hơn và được biết tới rộng rãi hơn trong vài thế kỷ gần đây, như nguyệt cầm và tần cầm, nguyệt cầm, không sở hữu lỗ âm thanh, hiện được dùng chủ yếu trong nhạc đệm Bắc Kinh. Tần cầm và đàn nguyệt lúc bấy giờ là hai cái nhạc cụ trong nhóm đàn nguyễn phồn thịnh hành ở Quảng Đông (廣東) và Triều Châu (潮州).
Cấu tạo
Đàn nguyệt mang các bộ phận chính như sau:
Đàn nguyệt ở Trung Quốc mang bốn dây, điều chỉnh trong hai tone D và A (thấp đến cao). Yueqin được dùng cho opera Bắc Kinh, tuy nhiên, với hai dây duy nhất, chỉ một trong số ấy là được sử dụng, dây dưới đây là mang hoàn toàn cho sự cùng hưởng cảm thông. Trong vở opera Bắc Kinh (kinh kịch), người chơi dùng một dòng chốt gỗ nhỏ thay vì một tấm lót để biểu diễn, và chỉ chơi ở vị trí đầu; Điều này đòi hỏi người biểu diễn cần dùng quãng tám oát để chơi hầu hết các âm thanh trong một nhạc điệu nhất định.
Các dây trên cái truyền thống của nhạc cụ được làm bằng lụa (mặc dù nylon thường được dùng ngày nay) và được nhét bằng một cái lọ dài tương đối, đôi lúc gắn bằng một miếng dây.
Không mang lỗ âm thanh, nhưng bên trong hộp âm thanh là một hoặc nhiều sợi dây chỉ được gắn ở một đầu, để chúng rung, tạo cho nhạc cụ vẻ đẹp và cộng hưởng đặc biệt.
Không có cây cầu hoặc ngựa đàn; Các dây chỉ đơn giản là gắn liền với neo tại cơ sở của nhạc cụ.
Khả năng trình diễn.
Nhìn chung đàn nguyệt với âm thanh sắc trong sáng, ở khoảng âm thấp thì hơi đục. Nó có thể trình bày phong phú sắc thái tình cảm khác nhau, từ dịu dàng, mềm mại đến rắn rỏi, rộn ràng.
Ngày xưa người biểu diễn nuôi móng tay dài để khảy đàn nguyệt, ngày nay miếng khảy đàn đã giữ nhiệm vụ này. Một số kỹ thuật dùng tay buộc phải trong đàn nguyệt như sau:
Khi biểu diễn ngón phi người ta dùng 4 ngón tay (không dùng ngón tay cái). Nếu đánh bằng miếng khảy đàn họ chỉ dùng 3 ngón vì ngón cái và ngón trỏ cần giữ miếng khảy.
Nguyệt cầm của Trung Quốc thường sử dụng trong kinh kịch, hòa âm trong dàn nhạc bát địa phủ đình, các bài hát dân ca, nhạc cổ phong Trung Quốc, C-pop, EDM,...
Vai trò của đàn nguyệt trong dân ca Việt Nam
Đàn nguyệt được dùng để biểu diễn những thể nhạc dân ca của Việt Nam. Trong ban nhạc "Ngũ tuyệt" của nhạc thính phòng cổ truyền thì đàn nguyệt đóng vai trò điều khiển. Bốn nhạc cụ kia trong dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn nhị, đàn tam và ống sáo.
Đàn nguyệt cũng giữ vai trò tối trọng yếu trong nhạc chầu văn-một thể mẫu hát đặc sắc của đồng bào Bắc Bộ
Bài thơ “Nguyệt Cầm” của Xuân Diệu:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh,
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần.
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm!
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
Mây vắng, trời trong, đêm thuỷ tinh;
Lung linh bóng sáng bỗng rung mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh.
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi…
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người…
Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê.
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.