Đàn Tranh thuộc họ dây, chi gảy xuất phát từ cây đàn Sắt của người Trung Hoa. Có thể đàn Tranh được du nhập sang đất Việt từ thời nhà Trần. Qua 80 thập kỷ, người Việt Nam đã Việt hóa để cây đàn với điểm nhấn văn hóa âm nhạc dân tộc mình.
Nói qua một chút về đàn Sắt (tiền thân đàn Tranh). Đàn Sắt là một cái đàn cổ của người Trung Hoa. Đầu tiên đàn Sắt với 50 dây, sau được làm gọn lại còn 25 dây. Đàn Sắt thường được tấu chung với đàn Cầm (7 dây), một trong những nhạc cụ họ dây cổ xưa nhất Trung Hoa. Bạn nghe tên 2 dòng đàn này mang thấy thân thuộc không nào. Hai chữ Sắt Cầm chính là nằm trong câu hát của bài cổ nhạc Dạ Cổ Hoài Lang. Duyên Sắt Cầm ý chỉ sự gắn bó son sắt của vợ chồng.
Đàn sắt cổ Trung Hoa
Đàn cổ cầm Trung Hoa
Đàn tranh với hình hộp dài, thân đàn dài khoảng 100cm mang 1 đầu to và một đầu nhỏ dần. Đầu lớn sở hữu chiều ngang 17cm tới 20cm và đầu nhỏ với chiều ngang từ 12cm đến 15cm. Chính cấu tạo này sở hữu phương pháp tạo hình khía cạnh khác tạo nên sự thảnh thơi. cho đàn Tranh. Thân đàn Tranh thường được làm cho bằng gỗ mun, gỗ trắc
Là mặt gỗ cong vòm lên và không tắp lự một khối thân đàn. Mặt đàn thường làm bằng gỗ cây ngô đồng hoặc gỗ thông. Có quan niệm cho rằng, mặt đàn vòm cong lên là tượng trưng cho bầu trời. Mặt đàn dày khoảng 5mm
Đáy đàn là mặt phẳng để dễ để trên đùi lúc ngồi đất hoặc để trên mặt phẳng khác khi ngồi ghế, song song tạo sự ổn định khi chơi đàn. Đáy đàn thường sẽ được khoét 3 lỗ. Một lỗ ổ đầu lớn của đàn để thoát âm, và mắc dây đàn. Ở đầu nhỏ có một lỗ nhỏ để treo đàn lên lúc không sử dụng và một lỗ ở giữa đáy đàn để một thể việc di chuyển. Lỗ giữa này với hình chữ nhật
Đàn tranh Việt Nam
Ở đầu của hộp đàn, chúng ta sẽ thấy một miếng gỗ nhô cao lên, cong ôm sát theo độ vòm của mặt đàn. Đây là cầu đàn. Cầu đàn được đục 16 lỗ nhỏ thẳng hàng để luồn dây đàn qua và giúp cố định dây đàn không bị xô lệch quá lúc được khẩy.
Các bạn nhìn thấy trên mặt đàn sở hữu 32 vật thể nhọn hình chữa A. Đó chính là ngựa đàn hay còn gọi là nhạn đàn vì có dáng hình như đôi cánh ngạn. 32 ngựa đàn này dùng để gác dây và mang thể dọc theo mặt đàn để căng chỉnh cao độ của mỗi dây đàn dễ dàng. Ngựa đàn thường làm cho bằng gỗ, nhựa hoặc xương, ngà,…
Dây đàn ngày xưa được tra là dòng dây làm bằng tơ. Tra là tiếng gọi xưa của hành động luồn dây, mắc dây vào thân đàn. Ngày nay thi hầu hết làm bằng dây kim lại như đồng, sắt, inox
Ở phía đầu nhỏ của đàn tranh, mang một trục đàn. Trục đàn dùng để căng dây hoặc để trùng dây/thả dây để tạo các âm sắc khác nhau. Kết hợp cùng sự đi lại của ngựa đàn/nhạn đàn tạo khả năng thiên biến vạn hóa cho đàn Tranh.
Móng chơi đàn Tranh
Tuy không phải là bộ phận nằm trong cấu tạo của đàn Tranh nhưng nếu thiếu các móng gảy này thì người chơi đàn Tranh khó mà tạo ra được sự uyển chuyển trong việc tạo ra âm thanh và cũng sẽ rất dễ tổn thương ngón tay vì dây đàn cực kỳ mỏng, mỏng như cước nhưng được căng cứng.
Móng gảy đàn được đeo ở các ngón tay 1, 2 và 3 bàn tay.
Do những dây được căng vô cùng chắc, song song dây đàn được tạo ra độ dày vô cùng nhỏ dù là dây dày nhất bắt buộc âm thanh của đàn Tranh siêu mỏng và trong sáng. Ở những nốt cao nhất mà đàn Tranh mang thể tạo ra, âm thanh nghe réo rắt như tiếng nước chảy và bay bổng như lạc vào chốn thần tiên.
Đàn tranh có 1 âm vực vô cùng rộng lên đến 3 quãng 8. Điều này là một lợi thế cho Đàn tranh vì âm vực quá rộng phải với thể trình bày rộng rãi cung bật cảm xúc cũng như kiêm đa dạng “chức vụ” lúc hòa tấu cùng những nhạc cụ khác.
Đàn tranh là một nhạc cụ biểu đạt rõ ràng nhất ngũ cung Việt Nam. Đàn Tranh được lên dây theo kiểu cổ nhạc:
Và cứ theo công thức này mà nâng lên tương ứng mang 20 dây còn lại.
Đàn tranh có một đặt điểm là 32 con nhạn đàn xếp thành 2 hàng, chia đàn tranh ra làm cho 3 phần. Phần sắp đầu to của đàn (Dùng tay phải để khẩy), phần giữa và phần gần đầu nhỏ của đàn (dùng tay trái để điều khiển). Và âm thanh 3 phần của đàn này tạo ra không hề giống nhau.
Điển hình lấy thí dụ như mở màn cho bài Lưu Thủy Trường trong các bản nhạc Bắc thì những bạn sẽ nghe người chơi đàn lướt ngón tay qua 1 loạt dây đàn tạo phải một chuỗi âm thanh như quyện vào nhau rất mềm mại như nước chảy. Đó là lý do vì sao gọi là Lưu Thủy Trường. Xin chú ý là chữ bài và bản ở đây được dùng theo nghĩa một dòng khuông sườn và người chơi tùy biến trong đó chứ không phải là 1 bài nhạc cụ thể như phương pháp đặt tên những ca khúc hiện đại.
Khi chơi bài Lưu Thủy Trường thì người chơi dùng phần dây đàn nằm sắp đầu lớn của đàn Tranh chứ không dùng 2 phần còn lại. Khi sử dụng 2 phần còn lại tạo ra âm thanh sẽ nghe cực kỳ khó chịu và mất đi sự trong trẻo vốn có của tiếng đàn Tranh. Để dễ mường tượng những bạn xem video sau nhé.
Sau lúc xem xong video thì chắc những bạn đã mường tượng ra Lưu Thủy Trường là gì và đặc điểm trong cách chơi của đàn Tranh như thế nào. Lưu Thủy Trường chỉ là một trong 6 bài của bản Bắc, không kể ra còn có những bài của bản Nam, bản Vọng Cổ, v…v… và trong mỗi bản lại chia ra nhiều bài khác nhau. Từ đó với cách lên dây khác nhau. Sau đây là một vài cách lên dây của những bản căn bản:
Dây Bắc, Quảng: Sol – La – Do – Re – Mi – Sol
Dây Đảo: Sol – La – Do – Re – Fa- Sol
Dây Nam Ai, Xuân: Sol – Si – Do – Re – Fa- Sol
Dây Vọng cổ: Sol – Si – Do – Re – Mi – Sol
Sa Mạc: Sol – Si – Do – Re – Fa- Sol
Tây Nguyên: Sol – Si – Do – Re – Fa# – Sol
Nói như ở phần trên thì không có nghĩa là tay trái, gần khu vực đầu nhỏ của đàn là vô tác dụng. Nếu như tay phải dùng để tạo ra những âm thanh chính thì tay trái dùng để tạo ra các âm nhằm tạo nên sự phong phú cho tiếng đàn lúc phát ra.
Chặn:
Tay trái với thể chặn trên đầu các con nhạn làm cho dây đàn hơi khựng lại, tạo ra âm thanh tương đối giống đàn bầu.
Móc:
Vì mỗi nốt nhạc chia ra 1 dây nhất mực tương tự như các phím đàn piano, phải đàn tranh có thể hoàn toàn tạo ra các hợp âm và song song vẫn chơi được các nốt riêng lẻ. Lúc này tay nên vẫn chơi những nốt theo nhạc điệu còn tay trái có thể dùng những ngón tay móc các dây đàn gần như cùng lúc để tạo ra các hợp âm.
Nhấn:
Nếu đã với thể tạo ra hợp âm thì hoàn toàn sở hữu thể chơi được tân nhạc. Nhưng theo ngũ cung Việt Nam thì lại ko với nốt Si. Lúc này dùng ngón tay ở tay trái nhân xuống dây nốt La và tay nên khẩy vào dây La này thì chúng ta mang nốt Si. Và sở hữu nốt Mi nhưng không có nốt Fa thì chúng ta “xài ké” dây Mi và nhấn xuống bằng tay trái, chúng ta sở hữu nốt Fa.
Đàn Kayakum của Hàn Quốc
Đàn Gayageum Hàn Quốc
Đàn Koto của Nhật Bản
Đàn Koto Nhật Bản
Và để kết bài, mời các bạn thưởng thức những sản phẩm âm nhạc sở hữu sự hiện diện của âm thanh kỳ diệu của đàn Tranh nhé.
Đầu tiên là ca khúc của một nhạc sĩ trẻ với chất nhạc cực kỳ riêng. Anh đã hài hòa tiếng đàn Tranh vào ca khúc nhạc tiên tiến của mình phương pháp tuyệt vời. Ca khúc Quá Lâu của nhạc sĩ Vinh Khuat
Khi nghe tới đoạn nhạc sử dụng tiếng đàn tranh, bạn sẽ cảm thấy Tết đang tới rất gần rồi. Một minh chứng hùng hồn cho tính dân tộc đậm sâu của đàn Tranh. Các bạn chú ý xem đoạn nhạc dùng tiếng đàn Tranh trong cá khúc, mở đầu chính là bí quyết đánh bài Lưu Thủy Trường mà mình đã kể đấy.