Đàn tranh hay đàn thập lục mang tên tự Nôm: 彈箏, chữ Hán: 古箏: cổ tranh; Bính âm:Gǔzhēng. Đây là nhạc cụ truyền thống của người phương Đông, khởi thủy từ Trung Quốc.
Đàn tranh thuộc ho dây, chi gảy. Đàn còn được gọi là đàn thập lục do đặc điểm có 16 dây. Ngày nay được cải hoán vị thành 19 dây.
Ngón chơi truyền thống của đàn tranh là những quãng tám rải hoặc chập. Ngón đặc biệt nhất là vuốt trên những dây và gảy dây.
Đàn tranh được dùng để độc tốc, hòa tấu, đệm cho người hát. Loại đàn này cũng được chơi trong rộng rãi chiếc âm nhạc như những dàn nhạc dân ca, hài hòa cũng sở hữu những ca khúc của C-pop…
Tiếng đàn tranh trong trẻo, sáng sủa thường miêu tả chuẩn xác những điệu nhạc vui tươi, nhưng cũng có khi u buồn, hùng tráng.
Dây bằng kim loại mỏng, tơ tằm bện, nylon hoặc polyeste ít phù hợp với tính khỏe mạnh, trầm hùng.
Tầm âm của đàn rộng 3 quãng 8, từ Sol 1 lên Sol 3 hoặc từ Đô lên Đô 3. Điều này phụ thuộc vào cách lên dây đàn.
Đàn tranh được dùng để độc tấu, hòa tấu, đệm hát và thường có mặt ở các dàn nhạc tài tử ở Việt Nam, những dàn nhạc dân tộc tổng hợp quốc tế.
Cách chơi truyền thống là sử dụng 2 ngón gẩy. Ngày ngay người chơi thường sử dụng 3 ngón, một số giả dụ cá biệt sử dụng 4 – 5 ngón.
Cách sử dụng 3 ngón gẩy gồm ngón mẫu (ngón 1), trỏ (ngón 2) và giữa (ngón 3) là phổ biến nhất. Cách bí quyết gẩy cơ bản gồm: Liền bậc, phương pháp bậc, gẩy đi xuống và đi lên ngay lập tức bậc hoặc bí quyết bậc. Thường dùng móng gẩy để gẩy nhưng riêng đàn sắt thì không dùng mà gẩy bằng đầu bụng ngón tay.
Bàn tay nên nâng lên, ngón tay khum lại, rồi buông lỏng ra, ngón tay đeo nhẫn tì nhẹ lên cầu đàn.
Khi đánh các dây đàn cao, cố hạ dần theo chiều cong của cầu đàn. Cánh tay hãy hạ khép dần lại. Đánh các dây thấp, cổ tay tròn lại và hạ dần về phía trước đàn. Ba ngón tay gảy phải thả lỏng, mềm mại, nhẹ nhàng nâng lên rồi hạ xuống gảy vào dây theo chiều cong tự nhiên của bàn tay, tránh móc dây, gãy ngón.
Ngón Á: Lối gảy nhiều của đàn tranh, cũng như cổ tranh Trung Quốc. Kỹ thuật gảy ngón á là cách gảy lướt trên hàng dây xen kẽ các câu nhạc. Ngón Á hay vào ở phách yếu để chuẩn bị vào một phách mạnh ở đầu hoặc cuối câu nhạc.
Á lên: Kỹ thuật lướt qua hàng dây. Kỹ thuật này vuốt bằng ngón 2 hoặc ngón 3 từ một âm lên những âm cao.
Á xuống: Đây là lối gảy cổ truyền, gảy liền các âm liền bậc, từ 1 âm cao xuống những âm thấp. Có nghĩa tiêu dùng ngón cái tay buộc phải lướt nhanh và đều qua những hàng dây, từ cao xuống thấp.
Á vòng là khoa học được hài hòa từ Á lên và Á xuống. Kỹ thuật này thường sử dụng để khai mạc hoặc chấm dứt một câu nhạc. Một số trường hợp, Á vòng được sử dụng để tả cảnh gió thổi, mưa rơi, sóng nước hoặc sử dụng ngón Á vòng liên tiếp mang rộng rãi âm.
Ngón vê dùng ngón tay nên ngón 2 hoặc hài hòa ngón 1 – 2 – 3, 1 – 3, 1- 2. Gảy trên dây liên tục, những ngón khác buộc phải khum tròn lại. Cổ tay buộc phải hài hòa mang ngón tay đánh xuống và hất lên đều đặn. Cần lưu ý, móng gảy ko buộc phải đặt quá xuống xuống gây lúc về đề móng gảy. Bởi sẽ tạo ra tiếng đàn không đều đặn và êm ái.
Song thanh: Tức 2 nốt cùng phát 1 lúc. Kỹ thuật song thanh truyền thống chỉ dùng quãng 8. Hiện nay, những nhạc sĩ còn kết hợp sử dụng những quãng khác.
Đầu 3 ngón tay giữa đặt lên trên dây nhẹ nhàng, bàn tay mở tự nhiên, còn ngón tay hơi khum. Hai hoặc 3 ngón tay gồm trỏ, giữa và đeo nhẫn chụm lại. Ngón tay cái và ngón út tách rời, dáng của bàn tay vươn về phía trước.
Mỗi lúc rung, nhấn, bàn tay sẽ được nâng lên mềm mại và ba ngón chụm lại sẽ cộng đi lại từ dây này sang dây khác.
Ngón rung: Sử dụng 1, 2 hoặc 3 ngón tay trái rung nhẹ lên sợi dây đàn mà tay phải mới gảy.
Ngón nhấn: Dùng để đánh thêm được các âm khác. Chẳng hạn như 1/2 âm, 1/3 âm, 1/4 âm mà hệ thống của dây đàn tranh không có.
Sử dụng 3 đầu ngón tay trái nhấn xuống nhẹ 1/2 cung, nặng hơn nếu là 1 cung. Cách nhấn nặng hay nhẹ phụ thuộc vào yêu câù của bài. Người nghệ nhân bắt buộc sử dụng tai nghe để cảm âm rồi điều chỉnh tay nhấn.
Ngón nhấn luyến: Dùng các ngón nhấn để luyến 2 – 3 âm với độ cao khác nhau. Âm thanh lúc dùng kỹ thuật này nghe mềm mại, mượt mà và uyển chuyển gần mang thanh điệu của tiếng nói. Ngón nhấn luyến với hai loại, gồm:
Đẩ đánh âm nhấn luyến xuống hay lên thì chỉ nên gảy 1 lần. Độ ngân của các âm nhấn luyến được ghi như những nốt nhạc bình thường.
Cần chú ý:
Ngón nhún: Nhấn liên tục trên một dây nào đấy để âm thanh cao lên ko quá một cung liền bậc. Kỹ thuật ngón nhún sẽ tạo thành những làn sóng có dao động lớn hơn ở ngón rung giúp âm thanh được mềm mại, tình cảm sâu lắng hơn.
Ngón vỗ: Dùng 2 – 3 đầu ngón tay trỏ, giữa và áp út vỗ lên một dây nào đấy bên trái nhạn đàn vừa được gảy. Sau đó nhấc ngay những ngón tay lên để âm thanh cao lên đột ngột từ 1/2 cung – một cung. Có 2 loại vỗ, gồm:
Ngón vuốt: Tay phải gảy đàn sau ấy dùng 2 – 3 ngón tay trái vuốt lên dây đàn ấy từ nhạn ra đến trục dây hoặc người lại. Cách đánh này sẽ khiến cho nâng cao sức căng của 1 dây liên tục và đều đặn. Âm thanh của đàn tranh lúc đánh theo công nghệ này sẽ được nâng lên từ 1/2 – 1 cung.
Ngón gảy tay trái: Ngón tay trái mang thể gảy dây trong phạm vi phía bên tay phải của nhạn đàn để đổi thay màu sắc, âm thanh. Tay trái không đeo móng gảy phải lúc gảy âm thanh sẽ êm và không vang bằng âm tay bắt buộc gảy. Để tạo chồng âm sở hữu thể gảy bằng cả hai tay. Tuy nhiên, tay trái gảy âm rãi trong lúc tay buộc phải sử dụng ngón vê hoặc đang nghỉ.
Ngón bịt chính là ngón vừa dùng ngón tay phải gảy dây, vừa dùng đầu ngón tay trái đặt nhẹ lên trên dây đàn hoặc chặn tay trái lên trên đầu nhạn đàn khi gảy 1 nốt. Nếu gảy cả một đoạn nhạc sở hữu âm bịt thì người gảy dùng cạnh bàn tay nên chặn nhẹ lên đầu đàn, dùng tay trái gảy thay cho tay phải. Khi gảy ngón bịt thì âm thanh mờ đục, không vang. Điều này sẽ gây được ấn tượng tương phản sắc nét với đoạn nhạc đánh bình thường.
Một số khoa học chơi đàn tranh mới khác như chơi phản đòn bằng tay trái và chơi hài hòa.
Nếu các bạn muốn mua nhạc cụ dân tộc uy tín chất lượng, vui lòng liên hệ với chúng tôi theo hotline bên dưới!