Đặc điểm của đàn nguyệt là có cái cần dài và những phím cao nên nghệ nhân với thể tạo ra những âm thanh mềm mại, uyển chuyển lòng người nghe bằng tiếng đàn khi trong, lúc sôi nổi hoặc thủ thỉ trầm lắng. Màu âm đàn tươi sáng, rộn ràng, tình cảm, đa dạng trong thể hiện cảm súc âm nhạc. Vì vậy, đàn nguyệt thường không thiếu vắng trong những cuộc hoà tấu nhạc lễ trang nghiêm, các buổi tang lễ, các cuộc hoà tấu thính phòng mang chức năng như đệm nhạc bài hát, ca trù, hát chầu văn, ca Huế, đờn ca tài tử, cải lương, hoà tấu hoặc độc tấu.
Đàn nguyệt với hộp đàn tựa như mặt trăng nên có tên là “đàn nguyệt”. Theo sử sách biên chép đàn nguyệt lúc mới xuất hiện với 4 dây, sau rút lại còn 2 dây.
Đàn Nguyệt gồm những bộ phận chính:
Bầu vang: là bộ phận lớn nhất của đàn, chúng mang hình ống dẹt, đường kính 30cm, thành bầu 6cm, dĩ nhiên có các kích cỡ khác nữa. Nền mặt bầu vang sở hữu bộ phận phía dưới gọi là ngựa đàn sử dụng để mắc dây.
Cần Đàn: làm bằng gỗ, gắn trên phần bầu tương đối dài, trên sở hữu 8 – 11 phím đàn, các phím gắn không bắt buộc đều, dùng để chỉnh dây và tạo âm.
Đầu đàn: mang hình dáng lá đề, được gắn trên phần cần, có 4 hóc luồn dây và 4 trục dây, mỗi bên hai trục.
Dây Đàn: gồm 2 dây một dây to và một dây nhỏ, trước kia khiến cho bằng sợi tơ, ngày nay chuyển sang dây nilon. Cách điều chỉnh dây khác nhau, tuỳ theo người nghệ nhân dùng theo hướng nào. Đôi khi 2 dây cách nhau quãng 4 đúng, với lúc bí quyết quãng 5 đúng hoặc quãng 7 hay quãng 8 đúng. Các lên dây thường được sử dụng nhất là quãng 5 đúng. Đàn Nguyệt thường được các ban nhạc chầu văn, tài tử, phường bát âm dùng khi trình diễn dàn nhạc dân tộc.
Tại Trung Quốc, đàn có 4 dây, được chỉnh trong hai mức D và A. Được sử dụng cho opera Bắc Kinh, bên cạnh đó có 2 dây duy nhất, chỉ một trong số ấy được thực sự sử dụng trong các vở kịch opera Bắc Kinh, người nghệ sỹ dùng 1 chiếc chốt nhỏ thay vì tấm lót để trình diễn và chỉ chơi ở vị trí đầu. Vì thế đòi hỏi người dùng bắt buộc dùng quãng 8 để chơi đa số âm thanh trong một giai điệu nhất định.