Giới thiệu
Đàn tỳ bà (chữ Hán: 琵琶; bính âm: pípá, romaji: biwa, tiếng Hàn: bipa)[1] là tên gọi một nhạc cụ dây gẩy của người phương Đông, qua thời kì dài dùng nó đã được bản địa hóa khác nhau tuỳ theo từng vùng hoặc từng quốc gia.
Hình thức cấu tạo:
Kỹ thuật diễn tấu:
Kỹ thuật diễn tấu của đàn Tỳ Bà có đa dạng ngón giống như đàn Nguyệt.
Tư thế đàn:
Ngồi thấp: xếp chân trên chiếu.
Ngồi thẳng trên ghế, đàn được đặt gần như thẳng đứng.
Kỹ thuật tay phải:
Tay bắt buộc gảy đàn, phương pháp dùng móng tay để đàn với phổ biến kỹ thuật phức tạp nhưng sinh động.
Kỹ thuật tay trái:
Kỹ thuật tay trái của đàn Tỳ Bà có các ngón nhấn, ngón vuốt, ngón mổ, bấm hợp âm, đặc biệt đàn Tỳ Bà có lối đánh song thinh (song thanh): 2 đồng âm ở hai dây khác nhau.
Ngón phi:
Ngón phi của đàn Tỳ Bà có thể đánh trên cả 4 dây hoặc phi trên từng cặp dây (dây1+2; dây 2+3 và 3+4) hoặc phi trên từng dây 1 hoặc 4 dễ dàng hơn.
Ngón nhấn:
Các phím đàn gắn bí quyết nhau ko xa lắm, mỗi phím lại ko cao như đàn Nguyệt nên các loại ngón nhấn (nhấn, nhấn luyến lên, nhấn láy…) đều sở hữu các hạn chế, thường chỉ nhấn từ nửa cung tới 1 cung ngay tắp lự bậc, hiệu quả ngón nhấn thấp nhất là khoảng âm trầm và 1 phần khoảng âm giữa.
Ngón vuốt:
Được tiêu dùng rộng rãi ở đàn Tỳ Bà, trong những tác phẩm cổ truyền ngón vuốt được dùng phổ biến như ngón nhấn của đàn Nguyệt. Ký hiệu ngón vuốt không vê dùng gạch chéo nối giữa hai nốt. Vuốt với vê dùng gạch chéo nối giữa hai nốt song song gạch hai gạch chéo ở nốt nhạc sở hữu đuôi, nếu nốt nhạc ko sở hữu đuôi thì gạch hai gạch chéo ở trên hoặc ở dưới nốt.
Là bí quyết vuốt dây của tay trái trong khi tay nên ko gảy, không vê, ko phi, âm thanh các ngón vuốt xuống phát ra nhỏ, yếu nhưng ko thể dùng trong hòa tấu. Do vậy các âm vuốt thường xen kẽ có những âm gảy, vê hay phi để sở hữu thể thừa hưởng dư ba của những âm ấy.
Có thể vuốt hai, ba dây 1 khi trong lúc tay buộc phải gảy, vê hay phi, kỹ thuật nầy ít dùng trong diễn tấu nhạc cổ truyền.
Ngón chụp:
Tay trái ngón một bấm vào 1 cung phím, tay buộc phải gảy dây, khi âm thanh vừa phát ra, ngón 2 hoặc 3 bấm mạnh vào cung phím khác (thường là ngay lập tức bậc cao hoặc thấp) âm thanh từ cung phím nầy vang lên mà không phải gảy đàn. Âm luyến nghe được do một phần của dây đàn còn chấn động, 1 phần do ngón tay mổ vào cung phím tạo thêm chấn động. Âm luyến nghe yếu nhưng mềm mại, ở những thế bấm cao âm luyến nghe kém vang buộc phải ít được sử dụng. (Ký hiệu ngón chụp: dùng dấu luyến giữa những nốt nhạc).
Ngón mổ:
Gần giống như ngón luyến, nhưng tay phải không gảy dây mà ngón tay trái cứ mổ vào những cung phím để phát ra âm thanh, âm thanh ngón mổ nghe nhỏ, yếu và sở hữu màu âm riêng biệt. Không nên dùng ngón mổ trong bản nhạc sở hữu tốc độ nhanh và trong hòa tấu vì hiệu quả ngón mổ nghe siêu nhỏ. Ký hiệu ngón mổ ghi như dấu hỏi đặt trên nốt nhạc.
Ngón vỗ:
Một ngón tay đang bấm trong khi ngón khác vỗ lên dây đàn.
Chồng âm, hợp âm:
Đàn Tỳ Bà có thể cách đánh chồng âm dễ dàng và hiệu quả nhất là dùng bằng miếng gảy, khi đánh chồng âm, hợp âm có thể đánh bằng móng tay hoặc phím gảy trên 4 dây, hai hoặc ba dây ko khó khăn và giữ tính chất đệm trong hòa tấu. Ðiểm độc đáo nhất của đàn Tỳ Bà là đánh hợp âm rãi, công nghệ đánh hợp âm rãi của đàn Tỳ Bà có hiệu quả đặc trưng và độc đáo như tiếng Á của đàn Tranh.
Đàn Tỳ Bà chế tác bởi Xưởng đàn Hương luôn cho âm thanh hoàn hảo, được những nghệ sĩ nổi tiếng yêu mến và lựa sắm để biểu diễn độc tấu và hòa tấu trong các dàn nhạc dân tộc đương đại Việt Nam.
Nếu quý khách có nhu cầu cần tìm mua đàn tỳ bà chất lượng vui lòng liên hệ số hotline: 088.609.4297