088.609.4297
Uy Tín - Tận Tâm - Chất Lượng

Nhà văn Đỗ Trung Lai sở hữu truyện ngắn "Người chơi đàn nguyệt ở Hàng Châu"

Trong chuyến công tác Trung Hoa mùa thu năm ấy, tôi với dịp ở lại Hàng Châu ít ngày.

Hàng Châu hiện nay là thủ phủ tỉnh giấc Chiết Giang.

Hơn hai nghìn hai trăm năm trước, Chiết Giang thuộc Giang Nam, đất của Ngô Vương Tôn Quyền - người anh vợ vạn bất đắc dĩ của Lưu Huyền Đức, vua Thục Hán thời Tam Quốc.

Trước đó khoảng ba bốn trăm năm, vào thời Chiến Quốc, Chiết Giang thuộc đất Việt của Việt Vương Câu Tiễn mà Hàng Châu là kinh đô. Hàng Châu xưa còn được gọi là Tiền Đường thành, vì với sông Tiền Đường chảy qua. Hàng Châu cũng gần Cối Kê thành - kinh đô thứ hai của Câu Tiễn - do Phạm Lãi xây dựng sau khi hai người được Ngô Vương Phù Sai thả về. Cũng vì việc thả Câu Tiễn và Phạm Lãi này, mà nước Ngô không còn tên trên bản đồ Trung Hoa thời Chiến Quốc nữa. Nó bị mất vào tay nước Việt.

Hàng Châu cũng là nơi sinh sống của La Bản, tức La Quán Trung, biệt hiệu Hồ Hải Tản Nhân, tác kém chất lượng bộ “Tam quốc diễn nghĩa” vĩ đại và cũng là đồng tác kém chất lượng “Thủy Hử truyện” cùng với Thi Nại Am thời cuối Nguyên, đầu Minh, tức cách đây độ dăm sáu trăm năm.

Hàng Châu cộng có Tô Châu, tức Cô Tô thành nơi Ngũ Tử Tư xin được treo mắt lên cổng thành để đợi ngày nhìn quân Việt phá Ngô, mà từ đấy cũng thuộc về nước Việt - là khởi điểm của “Con đường tơ lụa” nổi tiếng, xuyên qua Trung Á để tới Châu Âu...

Xem thế, đủ biết Hàng Châu đáng ở như thế nào.

Nhưng chuyện tôi gặp ở Hàng Châu thì mới thật là kỳ lạ!

Tôi ở chiêu đãi sở Tây Tử, thực ra là ở 1 biệt thự nơi mép nước trong cụm vi la du lịch bên bờ Tây Hồ, con hồ thơ mộng hàng đầu Trung Hoa.

Tây Tử là tên những tao nhân tiêu dùng để gọi Tây Thi tuyệt dung nhan - người con gái Việt giặt lụa bên khe Nhược Gia, núi La Sơn, huyện Thiệu Hưng, thức giấc Chiết Giang mà Câu Tiễn đem dâng cho Phù Sai phương pháp đây hơn hai nghìn năm trăm năm rồi.

Cái bến thuyền bên nhà khách nơi đón đưa khách vãn cảnh Tây Hồ - cũng được gọi là Bến Tây Tử.

Vừa lạ nhà vừa ngẩn ngơ nghĩ chuyện Tây Thi - Phạm Lãi, Câu Tiễn - Phù Sai ngay trên quê hương của họ, tôi không sao ngủ được. Quãng 11 giờ khuya, khoác thêm mẫu áo ấm, tôi đủng đỉnh bách bộ dọc Bến Tây Tử.

Bến vắng. Những ngọn đèn ẩn nơi mép nước rọi ánh sáng mạnh lên ngàn cây liễu tha thướt cao vút vòng quanh hồ, tạo ra cả 1 chân trời màu ngọc bích. Bên trên cái chân mây ngọc bích ấy là trời đêm mênh mông, thưa thớt mấy vì sao. Trăng thu lên cao, tròn vành vạnh. Gió thu, sương thu, trăng thu và ánh sáng từ các cây liễu hắt xuống, làm cho cho mặt hồ càng thêm huyền ảo. Những con thuyền đã tắt hết đèn neo trên bến. Những “trạo nhi”- người chèo thuyền chắc đã yên giấc ở nhà họ từ lâu. Chầm chậm tôi đi.

 


Đến chỗ ngoặt, vừa vòng qua một hòn kém chất lượng sơn với trồng trúc và phù dung, chợt thấy 1 người con gái tha thướt như liễu bên mé nước, tay cầm mẫu đèn lồng nhỏ, lễ độ cúi chào và nói:

- Theo lời ước ban chiều, nay xin đến đón!

- Ước ư? - kinh ngạc, tôi hỏi lại.

Nàng đưa tôi 1 tờ giấy và bảo:

- Cái này chưa nên 1 lời ước sao?

Tôi cầm tờ giấy, soi vào đèn lồng của nàng. Trên tờ giấy là bài thơ ngắn “Gửi Tây Thi”. Bài thơ như sau:

Lầu Tây Tử ta mua người trong sách

Giai nhân xưa cười nhắc ở đâu nào?

Bến Tây Tử bao lần đón đưa khách

Ta là ai trong chán vạn phong lưu?

Ước gì gặp kẻ khuynh thành ấy

Xem người xưa giờ khác bao nhiêu?

Thì đây chính là nét chữ của tôi, tờ giấy của tôi, bài thơ của tôi. Ban chiều, tôi cũng vơ vẩn bên hồ, rồi đem thả chính tờ giấy này, xuống đúng chỗ này. Sung sướng và sợ hãi, tôi bật hỏi:

- Tây Tử! Nàng đấy ư? Lại thế được ư?

Nàng chưa giải đáp mà cười và đọc một bài từ:

Trường Giang (hề) cuồn cuộn chảy về đông

Sóng vùi dập (hề) hết anh hùng

Được, thua, phải, trái (hề) thoắt thành không

Non xanh (hề) nguyên vẻ cũ

Mấy độ (hề) bóng tà hồng!

Khách thơ (hề) xin mời lên thuyền liễu

Một bầu rượu (hề) vui vẻ tương phùng

Xưa nay (hề) bao nhiêu việc

Phó mặc (hề) đề cập cười không.

Đọc rồi, nàng quay ra mặt hồ, cầm dòng đèn lồng huơ lên ba vòng. Tự nhiên thấy một con thuyền liễu, mui bằng cỏ lau, rẽ nước cập bến ko một tiếng động. Đứng cuối thuyền là 1 người đàn ông cao lớn đội nón dứa, mặc áo xống vải thô, đi dép cỏ. Nàng nhìn tôi và bảo:

- Con thuyền này chờ khách đã lâu rồi!

Tôi trỏ người đàn ông trên thuyền:

- Kia là...

- Bạn thiếp. Như cõi trần vẫn nói, đấy là Phạm tướng quân.

- Là Phạm Lãi ư?

Người đàn ông bỏ nón, kính cẩn vái chào theo kiểu ngày xưa, thay cho việc trả lời.

Tôi theo nàng lên thuyền. Nàng treo dòng đèn lồng lên nóc mui và mời tôi ngồi. Những chỗ ngồi cũng được ghép bằng lau lách. Bấy giờ, tôi mới nhìn kỹ được. Đó là một nàng tuổi bên cạnh đôi chín, da trắng như ngà, tóc tựa mun đen, môi như son tô, cổ tròn ba ngấn. Đặc biệt nhất là đôi mắt. Đôi mắt nàng to, thăm thẳm, mênh mông, vừa ưu sầu, vừa tối ưu và thơ trẻ. Đôi lông mày xanh và dài như hai lá liễu Tây Hồ, vừa oai nghi, vừa hiền thục, đều đặn uốn cong trên mắt nàng, khiến cho vầng trán trắng xanh của nàng có một vẻ cao quý, thoát tục lạ thường. Nàng mang trang phục màu hồng của loài hoa phù dung lúc về chiều, may bằng lụa Hàng Châu, bên ngoại trừ khoác mẫu áo cừu may bằng lông điêu trắng, dận đôi giày gấm xanh thêu kim tuyến- rõ là trang phục cung đình. Tóc nàng không cài trâm và đeo kim thoa. Mái tóc đen nhánh vô cùng dài của nàng buông suốt trên tấm thân thuôn vô song, và chỉ được trang điểm bằng 1 vòng đậu đỏ. Lúc này, Phạm tướng quân cũng đã vào khoang cộng nàng tiếp khách. Nhìn cách ăn mặc quá khác nhau của hai người, tôi cứ băn khoăn mà không dám hỏi.

Như đoán được lòng tôi, Tây Thi cười bảo:

- Bộ áo quần bằng lụa và đôi giày gấm này là do Phạm tướng quân tặng cho thiếp khi sang Ngô. Áo cừu là do Phù Sai tặng thiếp lúc ở Cô Tô đài. Thiếp luôn với chúng trên mình để nhớ mẫu thời tao loạn ấy. Vòng đậu đỏ là do mẹ thiếp cho, lúc thiếp còn là cô gái giặt lụa ở khe Nhược Gia. Chỉ phương Nam mình mới sở hữu giống đậu đỏ này. Hạt của nó cực kỳ xinh. Các thôn nữ thường tiêu dùng khiến cho đồ trang sức. Xưa nó tượng trưng cho tình yêu, nên cũng được gọi là “Hạt tương tư”. Còn Phạm tướng quân đây, sau lúc bỏ Việt Vương thì chèo thuyền vào hồ, lên núi tu tiên. Tướng quân đắc đạo và không còn bận mùi dương gian nữa.

- Sao bảo tướng quân đưa cả nàng vào hồ rồi thành ra Đào Công?- tôi hỏi lại.

- Đấy là do người đời nhớ mến Phạm tướng quân và thiếp mà nghĩ ra thế. Sự thực là ở Ngô về, Câu Tiễn phu nhân hẹp lượng, có lòng nghi kỵ, sợ dòng dớp khuynh thành, buộc phải lén sai người bắt thiếp cho vào bao đá, thả chết chìm ở sông Tiền Đường, ngay tại bến Chiết Giang! Lúc ấy, Phạm tướng quân đang miệt mài phục quốc báo thù, hôm mai xây dựng Cối Kê thành, chỉ biết cái nạn của thiếp sau khi việc đã xong rồi! Mà nếu biết sớm, phỏng cũng sở hữu giúp được gì? Ngày xưa, phận đào hoa nào có ra đâu! Việc xưng hùng xưng bá mới là trọng. Vả lại, thân thiếp lúc ấy cũng là thân nhơ nhuốc rồi. Sau này, Phạm tướng quân thành tiên, thiếp là người của bóng tối, âm dương bí quyết biệt, gặp đấy mà không thể cộng chung long giá phượng, hàng nghìn năm nay chỉ coi nhau như bạn... Nhưng thôi, thời thế khi đó là như vậy. Chuyện cũng quá lâu rồi, không đề cập lại nữa.

 

Minh họa: Đào Quốc Huy


Tôi đưa mắt nhìn Phạm Lãi, thấy tướng quân cúi đầu, vẻ mặt hối hận lắm.

Tôi nói:

- Phạm tướng quân là bề tôi kiên trung, giàu chí lớn, lại là người dũng lược mà chí tình. Anh hùng trong thiên hạ được mấy người như thế? Tướng quân thành tiên là phải.

Phạm Lãi chỉ lắc đầu, xua tay ko nói.

Tây Thi ra hiệu. Phạm tướng quân trỏ tay ra giữa hồ, con thuyền nhẹ nhõm tách bến, quay mũi, ko ai chèo, không một tiếng động, êm ái lướt đi. Bến Tây Tử xa dần.

Giữa thuyền, trước mặt chúng tôi, là một loại bàn vuông thấp, đóng bằng gỗ liễu. Trên bàn sở hữu 1 hồ lô rượu và mấy chiếc chung bằng đồng đúc. Tây Thi trỏ hồ rượu bảo:

- Đêm nay, khách thơ, xin cùng uống cạn hồ rượu này!

Nàng rót ba chung rượu và sẽ sàng:

- Rượu này là rượu Thiệu Hưng quê thiếp. Đây là danh tửu Trung Hoa. Uống nguội thì ko được, nhờ Phạm tướng quân hâm nóng giúp cho.

Phạm Lãi xòe hai bàn tay trên mấy chung rượu. Tôi như thấy sở hữu ánh lửa xanh từ tay chàng bay xuống, lấp loáng trên mặt rượu. Giây lát, chàng thu tay về, Tây Thi mời chúng tôi nâng rượu thưởng trăng. Rượu quả cực kỳ ấm. Uống xong, mặt nóng bừng mà tâm trí vô cùng là phấn chấn.

Tây Thi bảo tôi:

- Thiếp và Phạm tướng quân là chủ, còn chàng là khách. Thời giờ còn nhiều, đường còn xa, trước hết, thiếp xin đàn một khúc.

Nàng lấy trong ngăn ra một cây đàn nguyệt và lại bảo:

- Đàn này vốn không với ở Trung Hoa. Những người chết chìm oan khiên như thiếp, đều với “Tiềm thuỷ du pháp”, chuyển động dưới nước như thần. Mấy năm trước, thiếp theo loại Trường Giang ra Đông Hải, xuống được đến phương nam của chàng, học được phép chơi đàn này. Nay xin giả mạo muội lấy đàn nam đãi khách nam. Cây đàn quê chàng, khả năng diễn tấu hẹp, nhưng cần đàn dài, các phím hơi xa nhau, dễ nhấn nhá và cực kỳ đắc dụng khi diễn tả những tình cảm sâu xa tự đáy lòng.

Nói rồi, nàng vừa đàn vừa hát:

Đàn chim (hề) bay cao

Vẫy vùng (hề) đường mây!

Thân thiếp (hề) vô tội

Trách trời (hề) độc thay!

Hây hây (hề) gió may

Trở về (hề) bao ngày!

Lòng đau (hề) như cắt

Nước mắt (hề) vơi đầy...

Thuyền đi. Nàng đàn và hát. Phạm Lãi và tôi uống rượu, nghe đàn. Thuyền đi mãi, ra khỏi hồ rồi theo sông mà đi nữa. Càng hát, mặt hoa càng đầm đìa nước mắt. Phạm Lãi vò đầu bứt tai. Lòng tôi tan nát.

Nhưng vì sao nàng lại hát bài này? Đây là bài hát mà chính Câu Tiễn phu nhân, lúc sang Ngô ở bến Chiết Giang ngày ấy, đã hát kia mà.

Chợt nàng buông đàn, ngửa mặt lên trời mà than rằng:

- Phu nhân cũng là nữ giới như thiếp. Lòng Phu nhân cũng biết vui buồn như thiếp. Sao Phu nhân nỡ bắt thiếp chết tức tưởi như thế? Hỡi Phu nhân!

Lòng tôi đớn đau quá! Dù chuyện xảy ra đã cực kỳ lâu rồi, nhưng thật khó mà những người nữ giới tha đồ vật cho nhau! Khốn nỗi, nàng càng khóc càng sầu thì càng đẹp. Mà nàng đẹp thế, thì biết cần khuyên giải thế nào!

Lại ko để tôi nên khuyên giải, nàng lau nước mắt trỏ ra bờ sông, nghẹn ngào:

- Kia chính là bến Chiết Giang!

Tôi nhìn ra, dưới ánh trăng, chỉ thấy hai bờ um tùm cây lá, đâu với thấy bến bãi nào! Tôi nhìn nàng, Tây Thi sùi sụt kể:

- Sau lúc thiếp chết, đa số người yêu cảm, không sử dụng bến cũ nữa. Bến mới ngày nay lùi lên tới Cối Kê thành.

Một lát, rồi nàng cũng nguôi ngoai. Nàng bảo mang Phạm Lãi:

- Phạm tướng quân cần đưa khách thăm Cối Kê!

Phạm Lãi trỏ tay ngược lại, con thuyền ngoan ngoãn quay mũi. Một lúc, bên bờ đã thấy một quả núi hình con rùa vô cùng lớn. Phạm Lãi trỏ quả núi nhắc rằng:

- Rời Ngô sau ba năm, ba tháng khốn cùng, Việt Vương muốn ghi sâu trong lòng loại nhục Cối Kê, bèn lệnh thiên đô ra đây và giao cho tôi lo liệu. Tôi xem thiên văn, xét địa lý, lập ra 1 cái thành mới, bao bọc núi Cối Kê ở trong. Phía tây bắc lập Phi Dục Lâu ở núi Ngọa Tang để khiến Thiên môn. Phía đông nam lập Thạch Đậu Lâu để làm cho Địa bộ. Còn mặt chính bắc thì để không và kể đồn đãi lên rằng, không dám lấp đường cống tiến nước Ngô vì đã thần phục nước Ngô rồi, nhưng kỳ thực là để nhân thể đường đánh Ngô sau đó. Khi đắp thành xong, bỗng thấy trong thành mọc lên quả núi này. Núi hình con rùa, chu vi mấy dặm, cây cỏ rậm rạp. Có người trông quả núi, nhận ra ấy chính là núi Đông Vũ ở xứ Lang Gia, không biết cớ sao lại bay đến đây được. Tôi tâu có Việt Vương rằng, ấy là điềm nước Việt phải được nghiệp bá. Việt Vương mừng lắm, đặt tên núi là Quái Sơn, cũng gọi là Phi Lai Sơn- núi bay tới từ nơi khác- hay còn gọi là Quy Sơn- Núi Rùa. Việt Vương, từ khi nếm phân đoán bệnh cho Phù Sai, bởi thế sở hữu bệnh hôi miệng. Tôi biết với một nơi có trang bị rau trấp, ăn được nhưng mang mùi hôi, mới sai người đi hái rau trấp về, cả triều cộng ăn, để vua ko nên hôi miệng một mình nữa...

Kể mãi, rồi Phạm Lãi thở dài:

- Tôi biết Việt Vương chỉ sở hữu thể cộng sống khi hoạn nạn, chứ ko thể cộng sống khi sung sướng, cần sau khi phá Ngô, tôi bỏ vào hồ. Tôi mang rủ Văn Chủng, ông ấy ko nghe, vì vậy cần “bất đắc kỳ tử” như vậy. Thật đau lòng quá! Còn Tây Thi, nàng đã kể chuyện mình. Đâu còn mang thể với chuyện gì giữa một người cõi tiên và một người cõi âm được.

Nói rồi, Phạm Lãi thở dài, nhìn trân trân lên Phi Lai Sơn.

Dù Tây Thi mang bảo, Phạm tướng quân tu tiên đắc đạo, không còn bận mùi trần, nhưng xem ra thì chưa hẳn. Trong lòng chàng vẫn âm ỉ câu chuyện hơn hai ngàn năm trăm năm trước. Dù sao, chuyện Phạm Lãi và Tây Thi bỏ vào hồ sống với nhau, rõ ràng là chuyện thêu dệt của đời sau.

Tôi hỏi Phạm Lãi:

- Phạm tướng quân thấy mối bang giao giữa những nước hiện nay khác ngày xưa như thế nào?

Phạm Lãi rót rượu uống, thung dung nói:

- Lâu quá rồi tôi ko xem chính sự. Dù sao thì lòng yêu nước, chí bất khuất là với thật. Tôi vẫn luôn kính trọng các người vì nước quên thân, nhưng việc can qua là việc nên tránh. Nếu không, sẽ còn bao nhiêu Tây Tử nữa đây?

Phạm Lãi quay sang nhắc có Tây Thi:

- Đã quá canh tư rồi, buộc phải về để canh năm Tây Tử còn hồi viên.

Tây Thi gật đầu. Phạm Lãi trỏ xuôi. Con thuyền quay mũi rồi từ sông lại đi vào hồ, lát sau đã thấy Tây Tử Lâu trước mặt.

Về tới bến, Tây Thi bảo Phạm Lãi ngừng thuyền. Nàng nâng chén mời tôi và nói:

- Chỉ một canh nữa là thiếp phải xa chàng. Thiếp biết lòng chàng ngưỡng mộ và thương xót thiếp lắm. Thật chẳng với ai như chàng, xa xăm đến vậy mà để lòng viếng thăm thiếp, thiếp vô cộng cảm tạ! Nếu những điều thiếp nhắc đêm qua với gì chưa phải, chàng bỏ quá cho! Dù sao thiếp cũng chỉ là đàn bà. Một canh còn lại này, ta uống hết hồ rượu này và xin chàng cho thiếp 1 bài thơ nữa. Từ nay đâu còn mang thể gặp nhau.

Tôi bảo, thơ Trung Hoa viết về nàng đã phổ biến và hay lắm rồi, tôi ko dám cầm bút nữa. Nàng và Phạm Lãi đều cố năn nỉ, rằng bài thơ thả xuống hồ làm cho hai người cực kỳ cảm phục; rằng chỉ các kẻ cao ngạo mới nói, đã sở hữu thơ Trung Hoa rồi thì ko nên ai làm thơ nữa; rằng thơ cốt ở lòng chứ ko ở thuật...

Cuối cùng, “cung kính không bằng vâng lệnh”, mà đây là lệnh của Tây Thi chứ của ai, tôi bằng lòng. Thế là nàng lấy bút, bảo tôi đọc thơ cho Phạm Lãi chép lên giấy tốt. Bài thơ tôi tặng nàng gọi là bài “Nghe đàn nguyệt ở Tây Hồ”. Thơ như sau:

Tơ trắng nuột căng qua trăng viên mãn

Chiếc phải đàn mảnh như phận người con gái.

Nàng đang buông bắt trên phải đàn

Những thanh âm bật ra từ bầu trăng tròn ấy

Ta vào hồ trăng.

Lúc đầu, tiếng đàn là của nàng

Nghe 1 dạo, ta thấy đấy là gió, cây, mây và sương thu lên tiếng.

Nghe 1 dạo nữa, ta lại thấy tiếng đàn đó bật ra từ ngực ta.

Lúc nàng dạo nhẹ, tiết điệu vô cùng thong thả, ta nghe được cả tiếng thở dài.

Lúc nàng gảy mau, như thác đổ xuống thác, ta vẫn thấy tiếng thở dài rét mướt của nguyệt cầm.

Đến lúc nàng dừng tay, thì chính yên yên ổn lại làm cho cần những thanh âm ta chưa bao giờ được biết.

Từ ấy, cứ khi nào lặng im kéo đến, ta lại nghe văng vẳng nguyệt cầm.

Từ ấy, lúc xa nàng, ta chỉ còn yêu sự im lặng.

Nghe xong, nàng khóc và bảo:

- Hóa ra dưới gầm trời này, vẫn với người yêu thiếp tới thế! Hóa công há chẳng rộng lòng mang thiếp lắm ru! Từ nay, thiếp xin giải hết mối sầu hận ở trong lòng.

Đưa tôi lên bờ, mặc Phạm Lãi giục mãi, nàng cứ sử dụng dằng chẳng đi. Tôi cũng chỉ mong trời đừng sáng nữa. Chợt xa xa vẳng lại tiếng gà. Nàng giật mình, tái mặt, rồi nói:

- Chết nỗi, gà báo canh năm rồi, thiếp không thể lưu luyến được nữa. Xin chàng hãy bảo trọng!

Nói rồi, nàng gạt lệ, cùng Phạm Lãi xuống thuyền.

Bỗng chốc đã không thấy gì nữa...

ĐỖ TRUNG LAI

G

Nhắn tin!
088.609.4297

Phản hồi từ khách hàng

Khách hàng đến từ ITALIA

Khách hàng đến từ HONG KONG

Chú Cù Minh Quảng

Anh Nhi Yến Nam

Có thể bạn quan tâm