Việt Nam là dân tộc mang một kho tàng nhạc cụ cổ truyền vô cùng phong phú và đa dạng. Kho tàng ấy được hình thành trong suốt hành trình cuộc sống và chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Có các nhạc cụ được sáng tạo tại chỗ có tính đặc biệt bản địa, mang những nhạc cụ được nhập cảnh từ nhiều đường khác nhau nhưng đã được dân tộc hóa, bản địa hóa phù hợp với nhạc ngữ, có thẩm mỹ âm nhạc Việt Nam, mang đến vài trǎm chi loài nhạc cụ khác nhau. Dưới đây là các nhạc cụ điển hình nhất của người Việt.
Biên khánh là một nhạc cụ gõ Trung Hoa cổ xưa bao gồm một bộ chuông chùm bằng đá nhẵn nhụi hình chữ L còn được hiểu như là khánh, chơi du dương. Bộ nhạc khí này được xâm nhập vào cung đình Việt Nam từ thời phong kiến.
Đàn bầu, tên chữ là độc huyền cầm, là mẫu đàn một dây của người Việt, gảy bằng que hoặc miếng gảy. Đàn có hai chiếc là đàn thân tre và đàn hộp gỗ.
Đàn đá là một nhạc cụ gõ cổ nhất của Việt Nam và là một trong các mẫu nhạc cụ cổ sơ nhất của loài người. Đàn được làm bằng những thanh đá với kích thước dài, ngắn, dày, mỏng khác nhau
Đàn cầm hay cổ cầm là một mẫu nhạc cụ xuất phát từ Trung Quốc từ thời cổ đại, không rõ năm nào được đưa vào Việt Nam. Nhưng căn cứ ghi chép trong
Cuốn An Nam chí lược của dưới thời nhà Trần đàn cầm hay cổ cầm được đưa vào dàn tiểu nhạc. Vào thời Hậu Lê, lúc triều đình áp dụng
Đường thượng chi nhạc và Đường hạ chi nhạc trong thời kì ngắn với biên chế như sau: Đường thượng chi nhạc gồm: trống treo lớn, biện khánh, biên chung,
Đàn cầm, đàn sắt, sinh, tiêu, quản, thược, chúc, ngữ, huân, trì; Đường hạ chi nhạc gồm với phương hướng treo, không hầu, tỳ bà, quản cổ, quản địch. Đàn cầm
Tiếp tục được tiêu dùng trong các lễ nhạc thời nhà Nguyễn. Hiện nay đàn cầm ko được thịnh hành như đàn tranh, đàn nhị và tiêu sáo.
Tỳ bà đã nhập cảnh từ Trung Quốc sang nước Việt từ vô cùng sớm. Bằng chứng là hình chạm những nhạc công trên tảng đá vuông khiến cho chân cột chùa Phật Tích, Bắc Ninh,
Có chạm hình tỳ bà giữa hai nhạc công dùng ống sênh, và ống tiêu thổi dọc. Trong lúc đàn tranh sở hữu vóc dáng mà không thấy các con nhạn căng dây,
Đứng giữa hai nhạc công thổi ống sênh và ống sáo ngang. Trong cuốn An Nam chí lược của Lê Tắc, đàn tỳ bà thuộc dàn tiểu nhạc.
Đàn đáy là nhạc cụ do người Việt Nam sáng tạo ra. Không rõ đàn đáy xuất hiện lần đầu vào năm nào nhưng nó được nhắc đến hơn 500 năm qua.
Đàn nguyệt tức nguyệt cầm, trong Nam còn gọi là đàn kìm. Loại đàn này sở hữu hộp đàn hình tròn như Mặt Trăng nên mới có tên là "đàn nguyệt". Theo sách xưa thì đàn nguyên thủy sở hữu 4 dây, sau rút lại còn 2 dây. Sách của Phạm Đình Hổ thì ghi rằng đàn nguyệt xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỷ 18.
Đàn nhị (ở miền nam Việt Nam gọi là đàn cò) là nhạc cụ có cung vĩ, xuất hiện từ lâu ở Việt Nam. Ngoài người Kinh, đa dạng dân tộc khác cũng sử dụng nhạc cụ này (Tày, Nùng, Thái, Mường, Dao, Giáy, H’Mông...). Họ gọi đàn nhị bằng loại tên khác nhau.
Đàn tam là nhạc cụ Việt Nam có 3 dây (tam là 3). Trước đây người ta thường dùng nhạc cụ này trong dàn nhạc bát âm, hiện nay đa số các dàn nhạc đều với đàn tam sở hữu đủ mẫu kích cỡ, từ nhỏ, vừa đến lớn và cả chiếc đàn tam âm trầm, hòa điệu với những nhạc cụ âm trầm khác trong dàn nhạc.
Tam thập lục là nhạc khí dây, chi gõ của âm nhạc dân gian Việt Nam. Đàn có 36 dây buộc phải được gọi là Tam Thập Lục. Tuy nhiên hiện tại 1 số nghệ nhân đã cải tiến đàn này bằng cách mắc thêm nhiều dây nữa để đánh được đa dạng âm hơn, nhắc cả những âm nửa cung.
Đàn tứ là một nhạc cụ Việt Nam có âm cao, do với 4 dây cần người ta gọi là đàn tứ (tứ là bốn). Tuy nhiên đàn này còn phổ biến tên gọi khác như đàn đoản (đoản là ngắn) và buộc phải đàn ngắn hơn đàn nguyệt, đàn nhật (nhật là mặt trời) môt bí quyết để đối lại đàn nguyệt (nguyệt là Mặt Trăng).
Kèn loa là nhạc cụ thổi khá với nhiều tên gọi khác nhau. Người ta còn gọi kèn loa là kèn già nam, kèn bát (loa kèn giống hình cái bát) hay pí lê, pí kẻo (cách gọi của người Thái). Nhạc cụ này cả người kinh và người dân tộc đều sử dụng.
Mõ được xếp là một nhạc khí tự thân vang, rộng rãi ở Việt Nam. Trên thực tế mõ được sử dụng vào những môi trường khác nhau và với những chức nǎng khác nhau.
Phách là nhạc cụ gõ, xuất hiện trong nhiều thể chiếc ca, múa nhạc ở Việt Nam từ lâu đời. Phách sở hữu hình dạng vô cùng phong phú và tên gọi khác nhau. Trong hát xẩm phách gọi là cặp kè; trong cải lương và dàn nhạc phách là song lang; trong ca Huế phách là sênh, còn trong dàn nhạc tuồng, đám ma, múa tôn giáo và múa dân gian người ta mới gọi là phách...
Sáo là nhạc cụ thổi mang từ thời kỳ cổ đại, hầu hết các nước trên thế giới đều dùng sáo với đa dạng hình trạng và cấu tạo có thể khác nhau. Ở Việt Nam sáo ngang cực kỳ thông dụng và với đa chủng loại.
Sinh tiền là nhạc cụ gõ độc đáo, xuất hiện ở Việt Nam chí ít vài trăm năm nay. Tên cổ của nó là phách sâu tiền hay phách quán tiền. Ngày nay người gọi là sênh tiền. Nhìn chung, nhạc cụ này là một mẫu sinh sở hữu gắn những đồng tiền vào phải gọi là sinh tiền.
Song lang là một cái mõ nhỏ bằng gỗ cứng hình tròn dẹt tiêu dùng để giữ nhịp trong dàn nhạc.
Tiêu là nhạc cụ xuất hiện ở Việt Nam hàng ngàn năm nay. Nó là nhạc cụ thổi mang cấu tạo đơn giản hơn cả sáo ngang, vì chỉ mang một ống nứa và một số lỗ khoét. Nếu sáo thường được thổi ngang thì tiêu lại thổi dọc.
Trống cái là nhạc cụ không định âm, lớn, xuất hiện ở khắp nước Việt Nam từ hàng ngàn năm nay. Dù ở đồng bằng hay miền núi người ta đều nhận ra sự có mặt của trống cái.
Từ thế kỷ 10, trống cơm đã xuất hiện ở Việt Nam (đời nhà Lý). Đây là nhạc cụ gõ, định âm, còn sở hữu tên gọi khác là phạn cổ (phạn là cơm, cổ là trống). Trong các ban nhạc tuồng, chèo và ban nhạc tang lễ ngày xưa có loại trống này. Nhiều ban nhạc hiện tại cũng dùng trống cơm.
Trống đế là nhạc cụ gõ, xuất hiện ở Việt Nam từ lâu đời. Trong nhạc chèo người ta gọi nó là trống đế, còn trong hát ca trù nó là trống chầu. Nhìn chung nó chỉ xuất hiện trong chèo và ca trù.
Là một loại nhạc cụ của Tây Nguyên.
Nếu khách hàng có nhu cầu mua nhạc cụ dân tộc uy tín và chất lượng vui lòng liên hệ hotline bên dưới.
Nhạc cụ đàn Hương xin trân thành cảm ơn quý khách!