088.609.4297
Uy Tín - Tận Tâm - Chất Lượng

Tâm sự cây đàn Tỳ Bà Việt Nam

I. Tổ tiên tôi gốc người Hoa                                 
Cùng chung một số phận với Chị đàn Tranh, mà Chị càng ngày càng được muôn người ưa chuộng, bao nhiêu thiếu nữ xinh đẹp khắp ba miền Bắc Trung Nam nâng niu, chăm sóc, ấp ủ trong tay, để trên đùi, còn tôi chỉ được 1 số ít nhạc sĩ miền Trung chiếu cố, toàn là các nhạc sư lớn tuổi của dàn Nhã nhạc cung đình ngày xưa còn sống, hay những thầy dạy đàn Tỳ bà, những cụ nghiêm trang có mặt trong dàn ngũ tuyệt của ca Huế. Còn tại miền Bắc, miền Nam hiện tại số người biết dùng tôi theo phong bí quyết truyền thống Việt Nam, chắc chỉ đếm được trên đầu ngón tay.

Tôi nói chung số phận, vì Chị đàn Tranh cũng như tôi lần đầu tiên được nêu danh trong sách sử, khi ông Lê Tắc ghi trong quyển An Nam chí lược tên dàn tiểu nhạc sử dụng ngoài cung đình nhà Trần trong ấy có Chị đàn Tranh, và tôi cạnh đàn cầm 7 dây và cây "song huyền" đàn hai dây mà không biết rõ là đàn Cò, đàn Nhị hay đàn Nguyệt, đàn Kìm.

Cùng chung số phận vì chúng tôi không được như anh đàn Đáy hay chị đàn Bầu, do người Việt chế tạo, truyền thuyết ghi lại xuất xứ của mình, sanh đẻ, lớn lên tại nước Việt. Còn chị đàn Tranh và tôi trong gia phả chép rằng tổ tông chúng tôi từ Trung Quốc sang nước Việt, mang thể trước khi ông Lê Tắc nhắc tới chúng tôi, vì lúc những thợ chạm khắc nhạc công trên tảng đá vuông dùng làm chân cột chùa Vạn Phúc, tại Phật Tích, tỉnh Bắc Ninh, chạm tôi giữa hai nhạc công dùng ống sênh, và ống tiêu thổi dọc. Chị đàn Tranh với vóc dáng mà không thấy có các con nhạn căng dây, đứng giữa hai nhạc công thổi ống sênh và ống sáo ngang.


Lúc ấy là dưới triều đại Nhà Lý. Các nhà khảo cổ cho rằng Chùa Phật Tích được xây vào thế kỷ 10. Như vậy là Chị đàn Tranh và tôi đã được du nhập vào nước Việt, được dân Việt cho nhập tịch và sử dụng, rồi truyền lại cho con cháu, từ đời nầy sang đời khác. Chúng tôi đã chịu thử thách của thời gian, hơn ngàn năm, đã kể được chân thực tiếng nhạc của dân Việt, chúng tôi mới sống sót đến ngày nay. Không phải như anh đàn "Cầm", có mặt trong dàn tiểu nhạc do Lê Tắc ghi lại, sau nổi tiếng một thời dưới nhà Trần, nhờ mang sách Đại Việt Sử ký toàn thư chép lại sự kiện Nhạc sư Trần Cụ, am hiểu đàn Cầm và đã dạy cho Thái tử biết đàn Cầm và đá cầu. Nhưng rồi có lẽ không nói được rõ ràng tiếng kể âm nhạc Việt, đàn Cầm bị chìm trong quên lãng. Ngày nay, không còn thấy ai biết đàn Cầm nữa.

 

II. Cuộc đời long đong lao đao:

Suốt đời nhà Trần, không nghe ai đề cập tới hai chị em tôi. Chúng tôi yên phận trong dàn Tiểu nhạc dùng trong dân gian.

Qua đời nhà Lê, khi Lương Đăng qui định nhạc cung đình theo loại của Nhạc nhà Minh, tôi còn có mặt trong dàn Đường Hạ chi nhạc. Hỏi thăm chị đàn Tranh, thì nghe kể Chị không còn ở trong dàn nhạc nào cả. Tôi rất buồn. Nhưng qui định của Lương Đăng không được ai tán thành cả. Cụ Nguyễn Trãi đã dâng biểu để tâu có Vua vì sao Người đã từ nhiệm không ở trong Ban lo việc qui định Nhạc Triều Đình, nêu các loại sai của Lương Đăng. Những đại thần thông thạo âm nhạc như Lương Thế Vinh, Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, đều không tán thành những qui chế do Lương Đăng bày ra. Tôi ở trong dàn Đường Hạ chi nhạc mà có được ra mắt triều thần đâu.

Nhưng đến đời Hồng Đức (1470-1497), ba vị Đại thần nhắc trên chế ra hai đội Đồng Văn và Nhã Nhạc để đàn và hát trong cung đình. Tôi được biết Chị đàn Tranh cũng như tôi được tuyển vào trong hai đội ấy. Nhưng những Vị Đại thần không muốn giữ tên "tranh" hay "tỳ bà" là tên Trung quốc, cần đặt cho tôi tên "tứ huyền cầm" (đàn 4 dây) còn Chị đàn Tranh lúc ấy có 15 dây mang tên là "thập ngũ huyền cầm".

Sau đó, mang sự đổi thay cực kỳ lớn từ đời Quang Hưng (1578) Hai đội Đồng Văn, Nhã nhạc chỉ còn được dùng trong các lễ lớn như Tế Giao, Tế Miếu, Đại triều. Trong những dịp khác, lần lần Đồng Văn, Nhã Nhạc bị đội Giáo phường trong dân gian thay thế. Lúc nầy, tôi bị xem nhẹ và chị đàn Tranh may mắn hơn tôi được sung vào Đội Giáo phường, góp mặt mang đàn Đáy, đàn Trường cùng làm bằng cây tre dài 3, 4 thước ta, do bà lão nghệ nhân gõ để giữ nhịp, sở hữu trống yêu cổ, với mẫu địch quản mà tên gọi thường nhật là Quyển Thúy. Có đào nương vừa ca vừa gõ phách mang cả sênh tiền. Khi đờn trong cung điện gọi là đi “hát cửa quyền" thì đội Giáo phường với cực kỳ rộng rãi nhạc công đờn "cầm", nghĩa là chiếc đàn dây, trong ấy Chị đàn Tranh 15 dây được gọi trở lại bằng tên tộc của  mình là đàn Tranh. Và còn rộng rãi trống lớn trống nhỏ, ống địch, hải loa v.v..

Nhưng tới khi cuối đời nhà Lê, chẳng biết ai đã làm lại dàn nhạc trong cung đình, cơ mà với một lần đổi thay lớn: Chị đàn Tranh không còn có mặt trong dàn nhạc triều đình. Mà người ta lại tuyển tôi vào để góp mặt có đàn Nguyệt (lúc ấy tôi nghe những nhạc công gọi là "cái đàn song vận", đàn Tam, đàn Nhị, có hai loại sáo, 1 trống bản, 1 tam âm la và một sênh tiền. Chúng tôi được gởi sang Trung Quốc để sung vào mẫu Cửu tấu của Nhà Thanh. Chúng tôi có gặp mấy nhà sử học của Trung Quốc, tới hỏi thăm chúng tôi về tên các nhạc khí, xem xiêm y chúng tôi và ghi chép rõ ràng. Họ nói họ vâng lịnh triều đình ghi lại nhiều khía cạnh về 9 dòng nhạc nước ngoài có mặt tại triều đình nhà Thanh, họ chép vào quyển Khâm định Đại Thanh Hội điển sự lệ, (mà trong nước mình có Giáo sư Trần Văn Khê đọc được vả ghi lại Quyển số 538, tờ 3b).

 

Đến lúc Vua Quang Trung thắng trận Đống Đa xong, gởi phái bộ hữu hảo sang chầu Vua Càn Long, Vua nhà Thanh phong cho Vua Quang Trung tước An Nam quốc vương, người Trung Quốc gọi dàn nhạc chúng tôi là "An Nam quốc Nhạc".

Tuy sống xa đất nước, chúng tôi cũng nghe ngóng tin tức nơi nước nhà. Khi biết Chúa Nguyễn Ánh, thống nhứt bình định đất nước lấy tên nước là Việt Nam sau khi Ngài lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long, từ năm 1802, chúng tôi hiểu tại sao người Trung Quốc đổi tên chúng tôi lại là "Việt Nam quốc nhạc."

Tôi mang dịp về nước, trong khi nhà Nguyễn chỉnh đốn nhạc cung đình. Lập dàn Đại Nhạc gồm Kèn trống là chánh. Và dàn Nhã nhạc cũng gọi là Tiểu nhạc hay Ti trúc tế nhạc, vì dàn nhạc gồm các nhạc khí mắc dây tơ và cây sáo ngang làm bằng trúc. Tôi vẫn còn được có mặt trong dàn nhạc cung đình còn Chị đàn Tranh lại được trọng dụng trong dân gian và trở thành nhạc khí quan yếu của nhạc thính phòng. Có lúc song tấu đàn Tranh và đàn Nguyệt, tam tấu đàn Tranh, đàn Nguyệt đàn Nhị. Chị đàn Tranh dễ nhìn vô cùng. Chị đề nghị chọn tôi và cây đàn Tam để gia nhập sở hữu tam tấu của Chị. Chúng tôi thành ban "ngũ tuyệt" của ca nhạc thính phòng Huế.

 

Đàn tranh thời xưa

Chưa bao giờ tôi sung sướng bằng lúc nầy. Trong triều đình những ông hoàng, bà chúa khômg ngại ấp ôm tôi vào lòng. Tôi vừa có mặt trong dân gian, vừa được tham dự dàn Nhã nhạc trong Đại nội. Nhưng Chị đàn Tranh được nhiều người ưa chuộng hơn tôi. Các thiếu nữ, con nhà quan anh thế phiệt đua nhau học đàn Tranh. Mừng cho Chị và cũng lo cho mình.

Tại Huế tôi được rộng rãi nhạc sư, nhạc sĩ truyền dạy cho những nhạc sĩ trẻ. Các hoàng thân Bửu Lộc, Vĩnh Trân, Vĩnh Phan, đều nổi tiếng danh cầm và biết đàn đa dạng cây kể cả đàn Tỳ bà, cũng như nhạc sư nổi tiếng: Cụ Lữ Hữu Thi, Cụ Nguyễn Kế. Tôi được Ông Cả Soạn chăm sóc, truyền nghề cho nhiều  nhạc công trẻ tuổi. Ông Cả Soạn đặt tên Binh, Thơ, Đồ, Trận cho 4 dây Đài, Thứ đài, Trung, Tiếu.

      

Tôi với theo Cụ Trần Quang Thọ, từ Trung di cư vào Nam, sanh con là Trần Quang Diệm, nức tiếng là Ông Năm Diệm, cũng chuyên đàn Tỳ bà. Ông Năm đặt tên 4 dây của tôi là Tòng, Lan, Mai, Trúc, đúng theo giọng  Hò Xang, Xê, Líu.

Hậu duệ của ông Năm là Trần Văn Khê, còn giữ kỹ thuật đàn của Ông, qua các buổi dạy truyền ngón của Bà Ba Viện, con gái của Ông Năm. Một hôm Trần Văn Khê đàn Tỳ bà và kể chuyện 4 tên Tòng Lan Mai Trúc cho Mộng Trung nghe. Cô em họ và đầu ông cố vó Trần Văn Khê, xúc động đã viết ra mấy vần thơ:

                                        Bốn dây Tỳ bà

                           Tùng trong giá buốt vẫn xanh tình

                           Lan dãi phong trần, áo vẫn trinh

                           Mai đón ngành xuân, lòng ngạt ngào trắng

                           Trúc noi quân tử chẳng cầu vinh.

                             Tình xanh, tròng trắng áo trinh,

                   Gấm hoa chẳng thiết, danh lợi chẳng màng

                              Tơ mòn thương ấp phím loan,

                          Đầy vơi tâm sự gởi sang lòng đàn. 

                                              

Ngày nay, trong Nhạc viện Hà Nội, và tại Huế, còn mang các lớp dạy đàn Tỳ bà. Nhưng dạy theo phong bí quyết đàn mới của Trung Quốc ngày nay. Nhạc khí cũng thay đổi. Những mảnh "tượng" bằng ngà trên đàn xưa để trang trí, nay biến thành phím.

 

Tiếng đàn phi, hưởng, chầy của đàn Tỳ bà xưa, nay ít người còn sử dụng mà thay vào ấy mang những kỹ thuật trì tục thay đổi, đánh hai dây ba dây 1 lượt, có hợp âm, có chạy chữ. kỹ thuật rất cao. Mà kỹ thuật còn sử dụng để "biểu dương kỹ thuật”. Tôi còn chờ đợi những nhạc sĩ trẻ đem khoa học phụng sự nghệ thuật.

Tôi rất vui mừng khi biết rằng Unesco trong năm 2003 đã ghi Nhã nhạc tức Nhạc cung đình Huế vào danh sách các "Kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại". Và tôi rất mong rằng người Việt hữu trách ngày nay, biết giữ gìn loại hay chiếc đẹp của thời xưa và "phát huy" không với tức thì đổi mới bằng bí quyết chạy theo loại hào nhoáng bên bên cạnh của nhạc phương Tây mà quên dòng tế nhị thầm kín bên trong của nhạc cổ Việt Nam.

Tôi còn có mặt trong dàn Nhã nhạc và chẳng biết trong tương lai, những giới trẻ sẽ cho tôi đề cập tiếng nhạc gì?

Tại Nhạc viện Hà Nội có nữ nghệ sĩ Mai Phương sang Trung Quốc học đàn Tỳ bà trở về nước, được Nhạc Viện Hà Nội công nhận Giảng viên Trưởng khoa đàn Tỳ bà. Nhưng nghệ sĩ Mai Phương biết kỹ thuật đàn Tỳ bà theo phong cách Trung Quốc vô cùng rành, phải trong lúc truyền nghề dạy cho học sinh thì từ tư thế ngồi đàn cho đến kỹ thuật hai bàn tay (khảy và nhấn) đều giống phương pháp đàn của Trung Quốc. Cô cũng mang ý tìm hiểu truyền thống cây đàn Tỳ bà theo phong cách Việt Nam, nhưng mang lẽ chưa gặp được Thầy thuyết phục cô. Dầu sao, cô cũng đã tạo được một thế hệ trẻ biết đàn Tỳ bà và sau này vươn lên là những Giảng viên về Khoa Tỳ bà cho những Nhạc Viện TP. HCM và Huế.

Trong số học viên của Nhạc sĩ Mai Phương, có Phạm Thị Huệ là người với tiếng đàn hay nhất. Nhạc sĩ Mai Phương đã dạy Phạm Thị Huệ từ lúc còn nhỏ mới vào Nhạc viện và vì Huệ mồ côi mẹ, cô nhận bé Huệ làm con, đặt tên Phạm Thị Huệ thành Mai Huệ.

 

Sau khi ra trường Mai Huệ đỗ cao được giới thiệu khiến Giảng viên đàn Tỳ bà cho Nhạc viện Hà Nội.

Tôi rất vui khi biết Giảng viên Mai Huệ mang ý tậu học nhạc Việt cổ truyền theo phong cách xưa nhờ gặp được các người Thầy như Bùi Trọng Hiền, Nghệ nhân Kim Sinh.


Tôi bắt đầu được nhắc đến trong nền âm nhạc Việt Nam theo phong cách Huế (bài “Lưu thủy”, “Kim tiền”) và tiếng nói của đàn Tỳ bà Miền Nam (bài “Dạ cổ”, “Lý con sáo”). Tôi rất vui vì nhờ mang nghệ sĩ Mai Phương và Nhạc viện Hà Nội mà trong mấy năm sau này tôi được nằm trong vòng tay của các nữ nhạc sĩ trẻ, đẹp và có tài. Đến lúc Mai Huệ biên soạn Luận văn Thạc sĩ mà tôi là đề tài chính, tôi theo dõi công việc của cô và thấy rằng lúc so sánh tôi và những nhạc khí cùng mẫu thì tại Việt Nam tôi có mặt sau những cây đàn Pipa (Trung Quốc và Triều Tiên); Piwa (Nhựt Bổn); nhắc cả những đàn khác như Barbat (Ba Tư)...

Tôi rất vui vi lần đầu tiên - một nhạc sĩ trẻ Việt Nam nghiên cứu về tôi một cách sâu sắc, toàn diện. Nhận xét của cô giống như bài Giáo sư Trần Văn Khê đã viết về tôi gần 10 năm trước và có những điều tôi đã biết được khi tôi đi Trung Quốc xuất xứ của tôi.

Các bạn ơi! Hôm nay tôi có đôi điều tâm sự, nói lại những lúc tôi vừa "nhập tịch" âm nhạc Việt Nam. Nhưng tôi đã mang lần đến Trung Quốc, và đã đi ngược chiếc lịch sử để mua khởi thủy xa xưa của tôi. Chuyến đi tìm cội nguồn đấy cực kỳ thú vị, dẫn tôi đi viếng các Động Đôn Hoàng (Trung Quốc) và đi dài theo "Con đường tơ lụa". Và tôi đã kinh ngạc vì người ta tưởng tôi gốc ở Trung Hoa. Nhưng bạn có biết cha ông tôi sanh ra tại nước nào chăng ?

Lần sau, tôi sẽ thuật lại cho các bạn nghe chuyến đi tìm cỗi nguồn của tôi.

G

Nhắn tin!
088.609.4297

Phản hồi từ khách hàng

Khách hàng đến từ ITALIA

Khách hàng đến từ HONG KONG

Chú Cù Minh Quảng

Anh Nhi Yến Nam

Có thể bạn quan tâm